12/13/2012

Bùi Công Thuấn đọc Sương Sớm của Lê Đăng Kháng

TRIẾT LÝ NGƯỜI HIỀN

(Đọc Sương Sớm của Lê Đăng Kháng. Nxb Quân đội nhân dân. 2011)
Bùi Công Thuấn
Nhà văn Nguyễn Nguyên Chương (truyện Bốn giờ kém 15)đã có 4 bài đăng trên báo Phụ Nữ và Hôn Nhân nhưng chưa được thanh toán nhuận bút. Năm lần bảy lượt Chương đến tòa soạn, nhưng chưa bao giờ gặp được chú Ba Thao chủ nhiệm. Lần này anh bảo vệ tòa soạn gợi ý rằng Chương nên đến vào lúc 4 giờ hoặc 4 giờ kém 15 chiều. Chương lại chờ. Anh tự hỏi tại sao lại là 4 giờ kém 15? Một cô gái nói với Chương chuyên đề Phụ Nữ và Hôn Nhân đã hết giấy phép 2 tuần. Cô ta ngỏ ý muốn mua  bản thảo của anh, nhưng trả giá rất bèo. Anh không bán. Anh nhận ra sự thật là, anh đang đối diện với bọn người buôn bán văn chương.Thành phố lên đèn, chờ mãi chẳng được, Chương đành phải về. Một bà già ăn xin từ trong quán đi ra. Bà cụ vấp ngã làm văng thức ăn xin được ra đường. Chương vội lấy những  tờ giấy bản thảo bài viết anh đem theo gói đồ ăn cho bà, hình như bà già có cám ơn anh. Một thoáng hương hoàng lan thanh khiết theo gió thoảng đến. Anh nghĩ :”người làm văn có lúc tự phát hiện ra mình say sưa ‘ăn hương ăn hoa ‘thế này.”Rồi anh ngước nhìn ngôi nhà đồ sộ, nơi đặt tòa soạn của nhiều tờ báo, ở đó nhung nhúc người, và ngẫm nghĩ :” Họ còn nợ anh. Nợ thì phải trả. Vì anh vẫn được nhiều hơn mất”(tr.141)

 Vâng, đó là triết lý của người hiền.Họ còn nợ anh. Nợ thì phải trả. Chương tin như thế. Niềm tin ấy trong mắt người đời hôm nay, sẽ là một niềm tin ngây thơ. Bởi trong xã hội hôm nay, mọi thứ đều trở thành món hàng có thể mua bán, mà bán buôn cũng đồng nghĩa với lọc lừa. Sao Chương không làm toáng lên, làm đến nơi đến chốn, vạch trần bọn lưu manh đã cướp đoạt công sức của anh? Trái lại, anh nghĩ :”người làm văn có lúc tự phát hiện ra mình say sưa ‘ăn hương ăn hoa ‘thế này.”, đành chịu mất nhuận bút, Chương sẽ phải ăn hương hoa, uống nước lã cầm hơi. Và anh đã có kinh nghiệm. Không bán rẻ bản thảo nữa, nghĩa là không để bị lừa thêm lần nữa. Tuy vậy, Chương sẵn sàng lấy bản thảo của mình mang theo, gói thức ăn cho bà già ăn mày mà không tính toán thiệt hơn. Đó là một chi tiết nghệ thuật mang ý nghĩa tư tưởng. Nó tương phản quyết liệt với hành vi bọn người mang mặt nạ trí thức đã ăn cướp công sức của anh. Người đọc hiểu rằng, niềm tin của anh vào con người được đặt trên lẽ thiện. Anh đã làm một việc nhỏ giúp bà ăn mày, một việc thiện. Thiện nghiệp đem đến cho anh niềm hy vọng.  “anh vẫn được nhiều hơn mất”
 Có thể nói triết lý người hiềnlà cốt lõi tư tưởng của tất cả các truyện trong tập Sương Sớm của Lê Đăng Kháng (LĐK). Nhà văn quan tâm đến những vấn đề nhân sinh có tầm  bao quát hiện thực rất rộng. Đó là những vấn đề từ thời Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa (Sương Sớm),vấn đề anh em ở hai chiến tuyến trong Di Cư 1954, trong kháng chiến chống Mỹ trước 1975, rồi cải tạo, rồi chuyện người di tản H.O (Những Điều Chưa Hóa Giải);đến những vấn đề của đời sống đương đại. Một Phó Giám Đốc kiêm Trưởng Ban bảo vệ lâm trường “thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản XHCN” phải đi tù, để rồi gia đình tan nát, những người phụ nữ nhờ cơ hội mà ngoi lên địa vị quyền lực. Không biết họ đã tha hóa từ bao giờ và trở nên trơ trẽn đốn mạt đến không ngờ (Tiếng Chuông Ngoài Cổng).Những cô ả nhờ nhan sắc trời cho, giỏi nghề xoay sở, hàng chục lần bị lỷ luật cũng không sao (Liễu Nương)…
 Tất cả những vấn đề, những hoàn cảnh, những số phận mà Lê Đăng Kháng phản ánh đều được soi chiếu qua lăng kính của triết lý người hiền, triết lý tình nghĩa. Tiếng nói thiết tha của nhà văn với cuộc đời là tiếng nói xuất phát từ tấm lòng sâu nặng nghĩa tình, nhờ thế, đó là tiếng nói tin yêu, dù phải đối mặt với thực tại nhiễu nhương. Quế ra Hà Nội để bảo vệ luận án tiến sĩ, nhưng khi nghe tin Dũng, đồng đội K24 năm xưa đã hy sinh, Quế đã dùng  tiền làm luận án của mình giúp làm nhà cho vợ con bạn, để họ an cư, an ủi một phần linh hồn người đồng đội đã không còn trên cõi đời này để được nhìn thấy hạnh phúc và được chăm lo cho vợ con (Người Lính Hát Đơn Ca). Ông Bếp Kính (Sương Sớm), từng là đội trưởng đội Cải Cách Ruộng Đất năm xưa, đã dùng quãng đời còn lại của mình để làm việc tình nghĩa với dân làng và với gia đình Nguyên, chuộc những lỗi lầm ông gây ra trong thời bão táp cách mạng ấy. Chính cái tình cái nghĩa của cuộc tình 30 năm không thành giữa Dung và Nguyên đã tác động kỳ diệu đến ông Kính, hóa giải mọi ân oán của quá khứ. “Những điều chưa hóa giải” từ thời Di cư 1954, đến thời chống Mỹ trước 1975, rồi cải tạo và di tản đã được hóa giải thật thuyết phục bằng tình nghĩa. Bà Tâm, mẹ của Đức đã cưu mang Phúc, nên Phúc giúp đỡ để thời gian cải tạo của Đức tốt đẹp hơn, rồi khi Đức đi Mỹ, Phúc đã đi tìm Ngọc Giao, đứa con bị Đức  bỏ rơi, để cha Đức con đoàn tụ. Nhưng Phúc không ngờ rằng Đức  định gả Ngọc Giao cho Việt kiều để trả nợ. Ngọc Giao đã chọn ở lại Việt Nam với Phúc và người yêu mà không  theo người cha đi Mỹ. Bởi cô biết rõ người cha của mình chẳng có chút tình nghĩa gì với con. Nhà văn nhận định : “Đành rằng đồng Đô la có sức mạnh ghê gớm song trong trường hợp này nó đã thua tình yêu của một cô gái côi cút ít học như Ngọc Giao”.(160)
 Triết lý người hiềnkhông chỉ thể hiện ở nội dung tư tưởng mà còn trở thành một đặc điểm thẩm mỹ của ngòi bút Lê Đăng Kháng. Truyện của anh luôn kết thúc bằng những tình tiết, sự việc, mở ra một chân trời thương yêu và hy vọng, để lại trong lòng người đọc cái đẹp của tình người rất đỗi chân thực. Kiệm Lời là một truyện  thật thú vị, bởi nhà văn dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, nhưng bất ngờ và  ấn tượng là ở sự khám phá vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp ứng xử và cách kết lửng của tác giả về một cuộc tình còn chờ ở phía trước giữa hai nhân vật bác sĩ Mai Thi và anh bộ đội xuất ngũ tên Tuấn. Ước gì trong cuộc sống luôn có được những con người giàu tình nghĩa và giàu văn hóa như họ.
 Chân Trời Màu Bạch Kimlà bi kịch thăng hoa của một đời người lầm lỡ. Hoán là một cán bộ giảng dạy ở Đại Học, trở thành một Phó Giám Đốc kiêm Trưởng Ban bảo vệ lâm trường. Vì “thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản XHCN”. Hoán phải đi tù 2 năm 6 tháng. Trở về, nhà anh đã bị giải tỏa, vợ anh vừa nằm xuống trong sự cưu mang của xóm làng, đứa con trai lớp chín bỏ nhà đi làm. Tình cảnh bi đát ấy không được tác giả khai thác như một bi kịch về lẽ đời, nhưng lại mở ra một chân trời màu bạch kim của hy vọng. Ở đâu Hoán cũng được mọi người bao dung, từ người học trò cũ là cán bộ trại giam đến những người hàng xóm chí tình chí nghĩa, và vợ con anh, không hề oán giận gì anh. Tất cả những tấm lòng ấy đã giúp Hoán yên tâm gột rửa đời mình khỏi vết dơ lầm lỡ mà hướng về chân trời màu bạch kim.
 Triết lý người hiềncũng chi phối nghệ thuật xây dựng nhân vật của LĐK, đặc biệt là nhân vật anh bộ đội và người phụ nữ. Nhân vật anh bộ đội thời bình, dù trong hoàn cảnh nào cũng sống sâu nặng tình nghĩa, sống vươn lên. Họ trở thành chỗ dựa, thành niềm tin của mọi người xung quanh. Họ còn là những giá trị làm cho cuộc sống này trở nên tốt đẹp hơn, đáng yêu hơn. Anh bộ độ tên Quế (Người Lính Hát Đơn Ca) từ Nam ra Bắc, bị bọn đầu gấu ở ga bắt chẹt, anh “như một con mồi đang bị vờn chuẩn bị đến giờ phút bị vồ để hành hình”(tr.8).Anh đưa mắt cầu cứu nhưng không ai có thể giúp anh, vì hình như họ cũng sợ bọn lưu manh này. Bất ngờ anh được một Lục Vân Tiên thời đại giải vây, và thật không ngờ, người ấy là Lượng, đồng đội cũ của anh. Vâng, ở hiền gặp lành.Tuấn (Kiệm Lời) là anh bộ đội xuất ngũ đi học lớp đêm tiếng Anh. Giờ kiểm tra anh được cô Mai Thi giúp, nhưng anh từ chối sự giúp đỡ ấy. Anh còn trả lại cho Mai Thi chiếc điện thoại di động mà một lần thay mẹ đi nhặt rác, anh đã nhặt được. Mai Thi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp bình dị của Tuấn. Truyện hé lộ một cuộc tình đẹp mới bắt đầu. Nguyên (Sương Sớm) là anh bộ đội di B, lỡ một cuộc tình với Dung. 30 năm sau về quê anh mới gặp lại người yêu cũ. Nguyên vẫn là hình ảnh đẹp  trong lòng Dung như ngày xưa. Và chính Nguyên đã góp phần hóa giải những ân oán giữa ông Đội Kính và gia đình Nguyên trong Cải Cách Ruộng Đất. Người lính ấy đã bỏ qua tất cả những gì thuộc về quá khứ đau thương do lầm lỡ gây ra. Anh đã nhìn thấy tình người đẹp trong sương sớm lúc lên đường về Nam. Thầy giáo Hưởng, thương binh cụt chân đến thuê nhà Lèn. Hai cha con anh sống côi cút với tiếng đàn guitar làm vui. Nhưng anh không được yên. Lèn, người cho anh thuê nhà, ghen với anh, nhiều lần xúc phạm Hưởng, vì anh ta ghen vợ có thiện ý với Hưởng. Sau cùng Hưởng trả lại nhà ra đi. Người lính ấy năm xưa đã hy sinh một phần thân thể đồng bào mình (và bị vợ bỏ?), giờ nhẫn nhịn trước sự  xúc phạm của người khác thì nào có nghĩa gì,  nhưng phẩm chất và bản lĩnh của Hưởng đã trở thành chỗ dựa vững vàng cho người đồng nghiệp bất hạnh là Thục Trinh.
 Thục Trinh có thể là tiêu biểu cho số phận người phụ nữ bất hạnh mà LĐK đặc biệt quan tâm. Thục Trinh lầm lỡ với một thằng Sở Khanh, cô nhẫn nhục âm thầm nuôi con. Bố của Thục Trinh là một nhà giáo về hưu. Ông  như người mất hồn. Dù vậy, ông bảo con gái :” Con đã nhẹ dạ cả tin người mà lầm lỡ. Nhưng bố khen con chưa mất hết lương tâm, đã dũng cảm nhận lấy trách nhiệm nuôi cháu bé. Rồi cuộc đời sẽ để phúc cho con “(tr.166). Đó là triết lý của người hiền.Số phận Thục Trinh không thấy phúc của cuộc đời như ông bố tin tưởng. Cô lấy Lèn, một tài xế lái xe Nam –Bắc chở hàng cho công ty nông sản. Thục Trinh theo Lèn vào Nam. Rồi Lèn lái xe gây tai nạn, thất nghiệp, bỏ đi biền biệt rượu chè, sống bụi đời, ăn cắp vặt và cư trú bất hợp pháp, khiến cho Thục Trinh không sao chịu đựng nổi những nỗi nhục nhã do Lèn gây ra, nhất là những lần Lèn xúc phạm thầy giáo Hưởng. Cô đã phải đến trường xin lỗi anh. Truyện kết thúc ở ý tưởng phải giải phóng người phụ nữ khỏi những bất hạnh do đàn ông gây ra, bởi Thục Trinh là một cô gái ngoan hiền, một cô giáo dịu dàng phúc hậu, đáng được hưởng hạnh phúc. Dường như cô đã tìm thấy ở Hưởng, thầy giáo thương binh cụt chân một chỗ dựa tinh thần vững chắc cho đời mình.
 Triết lý người hiềnlà triết lý ở hiền gặp lành, và những kẻ ác nhân thất đức đều phải trả giá cho ác nghiệp đã gây ra. :”Nợ đời vốn sòng phẳng. Dù khó vẫn phải trả cho xong”(tr.108).Tất nhiên LĐK không lý giải sự việc một cách duy tâm, mà chính logic lẽ thiện của cuộc sống đã lý giải thay cho nhà văn. Nói cho thật đúng, trong tập Sương Sớm không có kiểu nhân vật ác, bởi ngòi bút của LĐK là ngòi bút hiền lành. Thấp thoáng trong truyện của anh có bọn đầu gấu ở trại giam, bọn lưu manh ở nhà ga, bến tàu, có thằng Sở Khanh (Tiếng Đàn), có những cô gái cơ hội chủ nghĩa (Liễu Nương), xa hơn có đội trưởng đội Cải Cách Ruộng Đất và người lính Sài gòn tên Đức. Nhưng trong mắt nhìn của LĐK, họ không phải là nhân vật ác, mà chỉ là lưu manh, không lương thiện, vô tình bạc nghĩa. Dù vậy, họ vẫn phải trả giá cho sự bất lương của mình.Tư Xuân (Con Chó của Người Tạp Vụ),làm việc ở công ty xây lắp thủy lợi. Vợ chồng Họ lấy nhau 10 năm không có con. Tư Xuân (TX) bị kỷ luật vì hối lộ. Vợ TX bể hụi phải đi làm nhà hàng và bị lão Bảy chủ nhà hàng chiếm đoạt. Vợ chồng ra tòa. Sau đó TX chết âm thầm trong nhà không ai biết, tan nát tất cả. Chỉ có con chó tên Bop nhịn đói chết theo chủ. Nó được người ta chôn bên cạnh mộ TX và ghi mấy chữ:” Khuyển mã chí tình. Bóp tức Vàng vì chủ quyên sinh”.  Liễu Nương nhờ nhan sắc và giỏi trong nghệ thuật gạ tình nên đã 10 lần bị kỷ luật, phài chuyển công tác, cô ta vẫn không hề gì. Đến chỗ làm mới, Liễu Nương lại có địa vị “ngon hơn”. Lần này, bị kỷ luật phải ra đi, cô ta vẫn chuẩn bi hành lý như một Việt kiều du lịch, chờ người tình hờ là ông thượng  tá chỉ huy lữ đoàn Tăng – Pháo binh đem xe U-oát đến chở. Nhưng cô ta đã hoài công, vì ông Thượng tá đã không đến.
 Là một ngòi bút hiền lành, LĐK không đẩy câu truyện phát triển thành bi kịch, mặc dù tính bi kịch của truyện làm người đọc nhói lòng. Hoán là một cán bộ giảng dạy Đại học, nếu anh không trở thành Phó Giám đốc kiêm trưởng ban bảo vệ lâm trường thì anh không lâm vào bi kịch. Trong suốt câu truyện, LĐK miêu tả Hoán là người lương thiện, Hoán đầy thiện ý trong việc tự cải tạo sao cho tốt. Nhưng bi kịch của anh là ở chỗ, một người có ý thức về nhân phẩm lại bị bọn đầu gầu chà đạp lên nhân phẩm; bi kịch là ở chỗ, anh là thầy dạy của Dũng, cán bộ trại giam, giờ phải đối mặt với người học trò về đạo đức làm người. LĐK viết đoạn đối thoại Hoán –Dũng khá hay. Một bên là quốc pháp bất vị thân, một bên là tình nghĩa thầy trò. Một bên là chứng lý tòa đã xử, một bên là sự hiểu biết cảm thông giữa người với người. Rồi khi ra trại với bao nhiêu yêu thương và hy vọng, Hoán đối mặt với cái chết của vợ, sự tan nát của gia đình. Khát vọng của Hoán lại bị vùi dập phũ phàng. LĐK đã kết thúc truyện trong ấm áp nghĩa tình của làng xóm và niềm hy vọng cha con đoàn tụ để bắt đầu một cuộc đời mới.
 Cũng vậy, số phận của Thục Trinh (Tiếng Đàn ) trong thực tế là một số phận bi kịch. Thục Trinh lầm lỡ thất thân, phải tự nuôi con. Ở làng quê, đó là một nỗi nhục nhã ê chề không sao gột rửa được. Tưởng niềm tin của người cha trở thành hiện thực, Thục Trinh lấy Lèn và theo chồng vào Nam. Nàng đâu có ngờ lại lạc bước vào sự lầm lỡ khác, khổ nhục đắng cay và khốn nạn hơn lần trước nhiều lần. Lái xe gây tai nạn, chồng nàng trở thành một kẻ thất nghiệp, lưu manh, ăn cắp vặt, rượi chè bê tha và vô văn hóa. Anh ta trở thành tai họa cho Thục Trinh bở cô làm việc trong một môi trường văn hóa, không thể chấp nhận một người chồng vô văn hóa. Khát vọng vươn lên của Thục Trinh bị vùi dập, dù nàng có cố gắng ẩn nhẫn chu tất trách nhiệm của mình. Bởi đâu ? Bởi số phận chăng, và đành cam chịu chăng ? LĐK đã không đẩy bi kịch của câu truyện đến chỗ bế tắc, mà hóa giải bi kịch bằng niềm tin vào lẽ thiện, bằng hành động để Thục Trinh tự quyết định chính số phận mình, phải tự giải phóng khỏi bi kịch. Người đọc không rõ số phận thực của Thục Trinh và Hưởng sau đó thế nào, họ có tìm thấy hạnh phúc trong bình an như họ mong mỏi hay không. Dù vậy, cách tác giả kết thúc câu truyện cũng mở ra nhiều hy vọng, đáp ứng được mong mỏi của bạn đọc về sự thắng lợi của lẽ thiện.
 LĐK không đẩy ngòi bút lên những xung đột kịch tính nên truyện của anh không gây được ấn tượng mạnh đối với người đọc thích những cái dữ dội bất ngờ. Anh có lối kể truyện đơn tuyến, điềm đạm. Sự việc trôi chảy theo  thời gian, tự nhiên như nó là vậy. Nhà văn ít chú ý đến cấu trúc truyện, ít sắp xếp tình tiết sự việc để tạo ra cấu trúc mới. Anh thường bắt đầu truyện bằng một sự việc đang diễn ra ở hiện tại, sau đó hồi tưởng ngược về quá khứ để làm rõ lai lịch nhân vật, gỡ cho ra đầu tơ mối nhện của câu truyện, rồi trở về hiện tại giải quyết tiếp công việc mà nhân vật đang theo đuổi. Đây là cách viết truyện đã trở thành “truyền thống”, đã quen thuộc, không còn sức hấp dẫn. LĐK không có cách tân trong nghệ thuật viết truyện ngắn. Tuy vậy, anh cũng có những truyện mà cốt truyện đầy yếu tố bất ngờ như Kiệm Lời, Chân Trời Màu Bạch Kim, Bốn Giờ Kém 15, …Chính những truyện này đã hé lộ ra khả năng LĐK theo kịp với trào lưu truyện ngắn Việt Nam đương đại.
 Và tôi tin rằng anh sẽ thành công khi phát huy được thế mạnh ngòi bút của mình. Dẫu thế nào tôi vẫn quý trọngngòi bút hiền lành của anh và tâm đắc với triết lý người hiền trong truyện của anh như căn cốt tư tưởng khi giải quyết những vấn đề của hiện thực, bởi đó cũng là cái gốc của văn hóa Việt Nam, là minh triết Việt đã tồn tại với lịch sử bốn nghìn năm. 
Tháng 9. 2011
 Bài đã đăng trên Văn Nghệ số 44 ngày 29 tháng 10 năm 2011
Đăng trên webstie của Hội Nhà Văn: 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét